Bốn xu hướng mở đường cho grid thời gian thực

Grid computing, được coi là tương lai của hệ thống điện toán doanh nghiệp, sẽ được hiện thực hóa sớm hơn dự kiến nhờ sự hội tụ của bốn lĩnh vực công nghệ. Robert Shimp, Phó Chủ tịch phụ trách marketing cơ sở dữ liệu của Oracle, trao đổi về vấn đề này với tạp chí Business 2.0.




- Ông có thể cho biết sự khác biệt giữa điện toán mạng lưới hàn lâm và điện toán mạng lưới doanh nghiệp?

- Nhìn chung, điện toán mạng lưới hàn lâm chuyên xử lý các dữ liệu tĩnh. Ví dụ, nền tảng này có thể được sử dụng để chạy các chương trình mô phỏng mang tính khoa học hoặc để xử lý các dữ liệu nghiên cứu rồi sau đó lại chuyển ngược lại tới một hệ thống máy chủ trung tâm. Đó không phải là thời gian thực, các dữ liệu không phải là dữ liệu động và ứng dụng chạy trên nền tảng đó không phải là các ứng dụng thực tế.

Không giống như điện toán mạng lưới hàn lâm, điện toán mạng lưới doanh nghiệp chạy các ứng dụng thực tế với dữ liệu thời gian thực nhằm tạo ra thông tin cập nhật nhất về tất cả các mặt trong chu trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Với điện toán mạng lưới doanh nghiệp, các công ty sẽ vận hành những ứng dụng thực tiễn với hiệu quả thời gian thực đồng thời sẽ tối ưu hóa được việc phân bổ tài nguyên tính toán của doanh nghiệp mình. Kiến trúc grid tập hợp hiệu quả một số lượng lớn máy chủ và hệ thống lưu trữ thành một cơ chế linh hoạt và có khả năng đáp ứng nhu cầu thực tế của mỗi công ty.

- Nói như vậy tức là điện toán mạng lưới doanh nghiệp sẽ làm thay đổi cách kinh doanh của các công ty?

- Đúng vậy. Điều cốt lõi mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là khả năng nối kết trong doanh nghiệp. Trong một thời gian dài, các doanh nghiệp đã phải mua những nền tảng phần cứng và phần mềm được đặc chế cho một tác vụ kinh doanh nhất định như quản lý nhân lực và kế toán... Nếu các quy trình kinh doanh của doanh nghiệp thay đổi (điều này hiện nay là thường xuyên), họ sẽ phải mất rất nhiều thời gian và chi phí để chuyển đổi mọi thứ. Như vậy, rõ ràng không thể tránh khỏi việc bộ phận phụ trách công nghệ thông tin trong doanh nghiệp luôn luôn bị tụt hậu so với các nhu cầu mà doanh nghiệp cần để thúc đẩy sự tăng trưởng của mình.

Điện toán mạng lưới có đủ tính linh hoạt cần thiết để bắt đầu làm thay đổi quan niệm này. Khi chúng ta bước vào kỷ nguyên của điện toán grid ở doanh nghiệp, chúng ta đã tiến thêm một bước trong công tác quản lý quy trình kinh doanh, tạo ra các công cụ và hệ thống cho phép người làm kinh doanh xác định, quản lý và tái định hình các khâu nghiệp vụ của riêng mình.

- Xin cho biết một số thành phần trong điện toán mạng lưới doanh nghiệp ?

- Có 4 xu hướng hội tụ đang mở đường cho sự phát triển của điện toán mạng lưới.

Xu hướng đầu tiên là điện toán có chi phí thấp. Một loạt động lực công nghệ đang thúc đẩy xu hướng hạ chi phí cho các trung tâm cơ sở dữ liệu thông thường, bao gồm các bộ vi xử lý của Intel, hệ thống dạng phiến, nâng cao mật độ bộ vi xử lý, khả năng kết nối mạng hiệu suất cao như Infiniband và mạng gigabit Ethernet, SAN và ngoài các hệ thống lưu trữ liên kết trực tiếp, còn có các hệ thống lưu trữ liên kết mạng NAS. Bên cạnh những khuynh hướng công nghệ đó còn là các xu thế khác như mô hình trực tiếp của Dell hỗ trợ việc thương mại hóa và module hóa tài nguyên điện toán để giờ đây các doanh nghiệp có thể mua các hệ thống dạng phiến tiêu chuẩn với giá rẻ hơn rất nhiều.

Hơn nữa, giờ đây doanh nghiệp hoàn toàn có thể lựa chọn nền tảng Linux để giảm chi phí đầu tư nhiều hơn vì đây là một hệ điều hành có chi phí thấp và tốc độ xử lý nhanh. Đây là những đặc điểm khiến Linux trở nên hấp dẫn đối với điện toán mạng lưới bởi nó không tạo ra bất cứ một chi phí dư thừa nào. Tất cả những đặc tính này kết hợp lại tạo ra một nền tảng cơ bản hấp dẫn đối với điện toán mạng lưới doanh nghiệp.

Xu hướng thứ hai là khả năng hợp nhất và ảo hóa. Với khả năng hợp nhất, doanh nghiệp có thể đưa tất cả các hệ thống máy chủ của mình vốn đang đặt không tập trung tại các vị trí khác nhau trong doanh nghiệp vào trong một trung tâm dữ liệu đơn nhất và kết hợp chúng lại với nhau. Từ đây, doanh nghiệp có thể thực sự chạy tất cả các ứng dụng của mình một cách tập trung với một nguồn tài nguyên phong phú có khả năng chia sẻ và được quản lý một cách dễ dàng. Doanh nghiệp có thể tổng hợp tất cả mọi thứ và biến các hệ thống đơn lẻ trở thành một hệ thống máy tính khổng lồ và mọi người có thể sử dụng chúng không hạn chế tùy theo nhu cầu của mình, tức là hệ thống khổng lồ này về cơ bản sẽ cung cấp các tài nguyên dựa trên nhu cầu của người sử dụng. Điều đó sẽ tạo ra một sự phân bổ tài nguyên điện toán hiệu quả hơn rất nhiều.

Nhu cầu về các hệ thống máy chủ đang ngày càng tăng. Tới năm 2005, theo dự đoán của IBM, các hệ thống máy chủ sẽ là sự kết hợp của nhiều cơ cấu máy tính thành phần có chi phí thấp, dựa trên công nghệ của Intel đã được chuẩn hóa. Công nghệ ảo hóa sẽ biến nhiều hệ thống nhỏ trở thành một tổng thể lớn và lợi ích ở đây là doanh nghiệp có thể vận hành các ứng dụng đóng gói có sẵn và đã được chuẩn hóa hiện hành mà không phải tái lập trình lại chúng.

Xu hướng thứ ba là khả năng tự động hóa. Một khi doanh nghiệp đã chuẩn hóa trên nền tảng điện toán có chi phí thấp và đưa tất cả các ứng dụng vào trong một trung tâm cơ sở dữ liệu duy nhất và vận hành chúng trên một liên kết khổng lồ của các hệ thống máy tính chi phí thấp, thì việc quản lý tất cả các ứng dụng này với những công cụ sẵn có hiện nay là cực kỳ khó khăn, nếu như không muốn nói là hoàn toàn bất khả thi. Bộ não của con người không đủ sức để xử lý tất cả các ứng dụng và doanh nghiệp cũng không thể thuê đủ người và điều phối được những người này để làm được điều đó. Vậy nên câu trả lời ở đây là: hãy tự động hóa để cho hệ thống tự quản lý chính nó. Doanh nghiệp cần một cơ cấu quản lý cũng như một hệ thống cơ sở dữ liệu và máy chủ ứng dụng có tính năng thông minh hơn để quản lý toàn bộ hệ thống.

Xu hướng thứ tư là một giao diện chuẩn. Một khi doanh nghiệp đã có được hệ thống mạng lưới máy chủ doanh nghiệp khổng lồ này với khả năng tự quản lý tất cả, thì các ứng dụng cần phải giao tiếp được với hệ thống này thông qua một bộ giao diện và dịch vụ được chuẩn hóa. Ví dụ dễ thấy nhất ở đây là khả năng quản lý nhận dạng. Bạn không muốn đăng nhập nhiều hơn một lần, vì thế tất cả các ứng dụng trên hệ thống mạng lưới phải có khả năng bảo mật và chấp nhận đăng nhập một lần duy nhất. Tương tự như vậy, phải có một dịch vụ được chuẩn hóa cho hệ thống mạng lưới này khi vận hành bất kỳ một ứng dụng nào trên đó. Hãy coi nó là một giao diện lập trình ứng dụng mở, theo chuẩn, dành cho điện toán mạng lưới.

Theo Business 2.0

No comments: